Theo Sưu thần ký, năm thứ 27 đời Tần Huệ vương, sai Trương Nghi xây thành ở Thành Đô, nhiều lần bị sụp. Bỗng có con rùa lớn nổi trên sông Dương Tử, bơi tới góc Đông Nam của tử thành phía Đông thì chết. Nghi đem việc ấy hỏi vu sư, sư nói : “Xây thành giống hình rùa”. Nghi liền làm theo, gọi là Quy Hóa thành. Trong đó, chữ "quy hóa" 亀化 khá gần tự dạng "cổ loa" 古螺 cả âm và lối ghi cổ.
Theo tiến sĩ Lê Chí Quế, "cổ loa" là lối kí âm Hán của từ k'la, tức kẻ La trong tiếng Việt trung đại, địa danh vẫn tồn tại cho tới đầu thế kỷ XX trước khi phủ thủ hiến Bắc Việt cải cách hành chính phía Bắc Hà Nội năm 1950 (đổi K'noi thành Cổ Nhuế, K'lu thành Kim Lũ, Tlem/Chèm thành Từ Liêm...). Đọc theo lối hiện đại là "con gà", tương ứng truyền thuyết Bạch Kê tinh quấy việc xây thành ; còn "thục phán" trong ngôn ngữ Tày là túkpăn, hàm nghĩa "thủ lĩnh", tương tự trường hợp "chao, chau" (triệu) trong ngôn ngữ Thái, "po t'ring" (bộ lĩnh, bồ chính) trong ngôn ngữ Champa hoặc "kurung, turun" (hùng, trưng) trong ngôn ngữ Minangkabau (chữ "minang/manang/mling" gần đây được học giới đồng nhất với tự dạng "văn lang, mê linh", góp phần củng cố giả thuyết người Minangkabau đã di cư từ Bắc Bộ tới Sumatra và đem nhiều di sản của ngữ hệ Việt cổ đã thất truyền tại chính Việt Nam). Khi khảo sát thực địa thập niên 1960, các nhà khoa học đã tìm thấy những trầm tích cổ hơn cả thời được coi là An Dương Vương dưới nền xóm Gà (nay thuộc huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội). Vậy "cổ loa" cũng có thể ước đoán là Bạch-kê thành (白雞城).
Điểm trùng hợp ngẫu nhiên giữa cứ liệu Sưu thần ký và quan điểm của tiến sĩ họ Lê là, nền Quy Hóa thành nguyên sơ là địa danh Mã ấp (xóm Ngựa), cho nên thành có tên gọi khác là Mã-ấp thành (馬邑城)[1]. Cũng khớp với các huyền tích kiến thành Tràng An thời Đinh và Thăng Long thời Lý. Tương truyền, khi Lý Thái Tổ dựng kinh đô ở khoảng giữa hồ Tây và sông Tô Lịch, thành cứ xây xong lại đổ, vua bèn tới đền Long Đỗ khấn, bỗng có con bạch mã từ nội điện chạy ra, vua cứ theo vết móng ngựa vào cho đóng móng xây thành, khiến thành vững chãi suốt cả ngàn năm.
「
|
Trước kia, người Tần cất thành ở ải Võ Châu nhằm phòng bị rợ Hồ. Nhưng thành cứ xây xong lại đổ khiến vô số kẻ chết. Bỗng đâu có con ngựa chạy qua chạy lại, phụ lão lấy làm lạ, bèn theo đó mà xây. Tự bấy thành không đổ nữa, bèn đặt tên Mã Ấp. 昔秦人築城於武周塞以備胡,城將成而崩者數矣,有馬馳走周旋反复,父老異之,因依而築,城乃不崩,遂名馬邑。
|
」
|
—Nguyên Hòa quận huyện chí (元和郡縣志), 813 SCN
|
Mà theo tác giả Philippe Papin trong cuốn Histoire de Hanoï năm 2001, ngay từ đầu Công nguyên, toàn bộ đồng bằng sông Hồng - gồm Hà Nội hiện đại - còn nằm dưới mực nước biển, nên ngoại trừ gò Cây Táo (tương ứng thôn Triều Khúc ngày nay) khả dĩ trên mép nước một chút, thì không lý gì người Việt lại dựng nhà cửa ở vùng nước trũng ; cho nên, sự tồn tại một kinh thành ở khu vực Hà Nội là điều hết sức phi lý. Ông cũng nhấn mạnh, trừ phi điều đó là sự "chữa" sử ký nhằm hợp thức hóa việc tuyên truyền chủ nghĩa dân tộc hiện đại. Dù vậy, một bộ phận người Việt hiện đại còn nặng tinh thần cực đoan bảo thủ thì không chấp nhận kiến giải theo lối mới, thậm chí sẵn sàng tẩy xóa sự thật nhằm hậu thuẫn cho niềm tin cũ, cố ý bỏ quên sự hiện diện của yếu tố Hán Đường trong lớp tàn tích. Còn theo tiến sĩ Lê Mạnh Thát, thành Cổ Loa có sớm nhất từ thời Ngô Quyền, trong khi truyền thuyết An Dương Vương xuất hiện khá trễ ở hậu kỳ trung đại, một cách phản ánh Mahabharata theo nhãn quan người Việt. Tuy nhiên, tới nay chưa biết thuyết nào xác đáng hơn.
- Truyền thuyết Thái Vân Nam: Khoun Bourôm thống nhất lục chiếu, bèn chiếm Muang Thèn lập kinh đô. Thành hễ cất được ít lâu thì đàng xa có tiếng gà gáy, lại sập, khiến biết bao người chết. Nhà chúa phải cầu đảo bách thần, ma rừng ma nước... thế rồi có cụ già tới chỉ cách dựng thành trên cái gò hình con rùa, lại niệm chú. Tự bấy thành không đổ nữa / Nước Đại Lý có lĩnh chúa họ Đoàn tự lập làm vua, bèn dấy quân đi đánh chúa quỷ Atula. Quỷ vương bèn bắt vợ Đoàn lĩnh chúa về dinh của nó. Chúa phải mượn cây nỏ có lẫy bằng móng thần rùa vốn là linh vật họ Đoàn từ đời cố tổ. Nỏ phóng ra những mũi tên sắc lẹm, phá tan thành ấp quỷ, nhưng vô tình giết luôn thê thiếp tông tộc quỷ vương và cả vợ lĩnh chúa Đoàn. Sau khi diệt xong quỷ dữ, Đoàn lĩnh chúa cho dựng thành trên nền dinh ấy.
- Huyền tích Tày-Nùng: Chúa Nông Trí Cao xưng đế, dựa vào châu Thảng Do để cự nhà Lý. Bèn cất ở đấy một đô thành, gọi là Tà Dích (Đại Lịch), nhưng thành cứ xây xong lại sập. Nhà chúa bèn lập đàn khấn thần linh, thần bèn hóa con rùa vàng óng bò lại. Rùa bò tới đâu thì đất cứng đến đấy, chúa mừng quá bèn đóng cọc xây thành, không bao giờ đổ nữa. Nhân đó đổi tên thành là Tà Nám (Đại Nam). Thần rùa rút ở chân ra cái móng, bảo hễ lúc nào bị quan quân triều đình truy bắt thì đem ra dùng. Nông Trí Cao không tin, sau quả nhiên ứng nghiệm, khi lấy cái móng rùa ra thì đột nhiên có cơn gió đưa đi vạn dặm, tránh khỏi bị bắt.
- Huyền thoại Tráng: Bua Mèng Mỗi dựng thành quách ở cái gò tựa như con rùa, nhưng thành hễ xây được ít hôm lại sạt lở. Bua bèn triệu thầy mo về cúng ma rừng. Thầy mo nói, nội dăm hôm nữa sẽ có thần gà trắng tới báo oán. Bua Mèng Mỗi bèn triệu các con trai lại, nhưng không ai dám đi đánh yêu quái. Bua phải lập đàn cầu đảo, xin dâng người thiếp đẹp nhất cho thần gà. Bỗng có trận gió ào tới cuốn phăng nhà cửa và người thiếp ấy đi. Tự bấy việc xây thành tiến triển, không đổ nữa.
- Tam quốc sử ký: Ở thiên quốc bỗng đâu có sáu quả trứng rơi xuống Kê Lâm, trứng nở ra 6 vị vua chia nhau cai trị cõi Hàn. Trong 6 anh em, Thủ Lộ Vương ra trước, bèn bàn cách lập ấp kiến thành ở Kim Hải. Nhưng thành cứ dựng xong thì lúc sẩm tối lại đổ, vua bèn hỏi vu nữ, vu nữ bày rằng phải lập đàn khấn Đông Hải Long Vương. Long Vương nghe có kẻ xướng danh mình, bèn lội nước vào bờ dưới dạng con rùa mai vàng. Rùa cứ bò tới đâu thì Thủ Lộ Vương đóng móng cất thành đến đấy. Thành vì thế vững chãi, bọn hải khấu đánh mãi cũng không đổ.
- Huyền thoại Kalmyk: Xưa kia, đại hãn Biệt Ca lập đô thành Tát Lai ở tả ngạn Volga nhằm phô trương thanh thế. Nhưng hễ khi mặt trời lặn thì móng thành đứt tung như có quỷ gặm (dị bản cho là linh cẩu), hãn bèn sai người cháu là Na Hải tìm hiểu. Khi đêm buông, Na Hải trốn sau cái gò và thấy những bóng đen chạy tới chạy lại, húc vào chân thành làm bở gạch vữa, ngài bèn tri hô cho binh sĩ ruổi ngựa đuổi theo. Những bóng đen lộ nguyên hình dưới ánh lửa là những con gà có sải cánh rất dài, chạy thục mạng lên phương Bắc. Đại hãn bèn nhờ vu sư khấn thần rùa từ phương Đông tới giúp đánh yêu quái, từ đấy thành không đổ nữa. Nhờ công trạng ấy mà sau khi đại hãn mất, Na Hải được kế nghiệp và lập một hãn quốc lừng lẫy ở ven hồ Kaspy.
「
|
Các nghiên cứu gia ngoại quốc như Li Tana, Keith Weller Taylor, Liam C. Kelley, Shiraishi Masaya... có cái nhìn khá trung lập về lịch sử Việt Nam cổ trung đại. Họ không bị ám ảnh bởi những "tư tưởng" về "chủ nghĩa dân tộc" hay "lòng yêu nước", ngược lại, họ "giải ảo" và trình bày lịch sử Việt Nam theo hướng khác chứ không lặp theo mô thức quen thuộc của các sử gia Việt Nam. Mà tôi thấy, những nhà nghiên cứu đó rất giỏi sinh ngữ, đặc biệt là họ phải giỏi Hán văn nên mới có thể đọc được các tài liệu gốc thời trung đại, thứ mà ngay nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam cũng không muốn hoặc không biết đọc.
|
」
|
—Trần Nguyễn Tuấn[2], khoa Lịch Sử trường ĐH KHXHNV QG thành phố Hồ Chí Minh
|
|